Quan hệ với chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao Tư tưởng Chủ thể

Đoạn viết này không được chú giải bất kỳ nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp hoàn thiện đoạn viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Năm 1972, Chủ thể đã thay thế chủ nghĩa Marx Lenin trong hiến pháp sửa đổi của CHDCND Triều Tiên trở thành ý thức hệ nhà nước chính thức, đây là một sự phản kháng trước cuộc chia rẽ Trung-Xô. Tuy nhiên Chủ thể được định nghĩa như một cách áp dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin. Kim Chính Nhật cũng giải thích rằng Juche không phải có nguồn gốc từ Triều Tiên và rằng trong khi vạch ra tư tưởng này ông chỉ chú trọng tới một sự định hướng kế hoạch hoá vốn có của tất cả các quốc gia Mác xít - Lêninít.

Sau sự sụp đổ năm 1991 của Liên bang Xô viết, nước cung cấp viện trợ kinh tế lớn nhất cho Triều Tiên, mọi điều liên quan tới chủ nghĩa Mác xít Lêninít bị xoá bỏ trong lần sửa đổi hiến pháp năm 1998. Nhưng chủ nghĩa Mác Lênin vẫn thỉnh thoảng được sử dụng, ví dụ chủ nghĩa xã hộichủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, sự thiết lập học thuyết Songun hồi giữa thập niên1990 đã chính thức chỉ rõ quân đội, chứ không phải giai cấp vô sản hay giai cấp công nhân, là lực lượng cách mạng chính ở CHDCND Triều Tiên.

Nhiều nhà báo, nhà bình luận và học giả bên ngoài Triều Tiên so sánh Chủ thể với chủ nghĩa Stalin và gọi Triều Tiên là một quốc gia kiểu Stalin. Một số chuyên gia tuy vậy đã bác bỏ và tìm cách xếp Triều Tiên như một nhà nước nghiệp đoàn (Bruce Cumings), phát xít (Brian Myers), du kích (Wada Haruki), quân chủ (Dae Sook-suh), tư bản mới (Andrei Lankov), và chính trị thần quyền (Han S. Park, Christopher Hitchens). Những người từng đưa ra những tranh cãi có điều kiện rằng Triều Tiên là một chế độ Stalin gồm Charles Armstrong, Adrian Buzo, Chong-sik Lee, và Robert Scalapino.

Các bài viết và bài nói về chính sách của Kim Nhật Thành từ thập niên 1940 và 1950 xác định rằng chính phủ Triều Tiên chấp nhận lý thuyết năm 1924 của Joseph Stalin về chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia và mô hình phát triển kinh tế tự cung tự cấp tập trung hoá của nó. Chính Kim Nhật Thành là một người hâm mộ cuồng nhiệt Stalin. Sau cái chết của Stalin ngày 5 tháng 3 năm 1953, lãnh tụ CHDCND Triều Tiên đã viết một thông cáo đầy cảm xúc ca ngợi Stalin với tiêu đề "Stalin là cảm hứng của những Dân tộc đang đấu tranh cho tự do và độc lập của mình" trong một bản thông cáo đặc biệt của tờ Rodong Sinmun, cơ quan tuyên ngôn của Đảng Lao động Triều Tiên, (10 tháng 3 năm 1953), đoạn đầu như sau:

"Stalin đã qua đời. Trái tim nồng nhiệt của vị lãnh tụ vĩ đại của nhân loại tiến bộ đã ngừng đập. Tin buồn này đã đến khắp đất nước Triều Tiên, như một tiếng sét, một sự cay đắng với hàng triệu con tim nhân dân. Binh sĩ Quân đội Nhân dân Triều Tiên, công nhân, nông dân và sinh viên cũng như tất cả những người dân ở cả Nam và Bắc bán đảo Triều Tiên, đã nghe tin buồn này với sự tiếc thương sâu sắc. Tổ quốc Triều Tiên bày tỏ sự đau buồn, và những bà mẹ những người đã cạn kiệt nước mắt khóc than cho những đứa con đã mất trong những trận bom của bè lũ không quân [Mỹ] lại bật lên lần nữa."

Khi việc xoá bỏ tệ sùng bái cá nhân sau cái chết của Stalin được tuyên bố năm 1956 trong Đai hội lần thứ Hai mươi của Đảng Cộng sản Liên Xô, chính quyền nhà nước CHDCND Triều Tiên đã chấm dứt việc công khai ca ngợi các lãnh tụ Xô viết. Nhưng chế độ này từ chối đi theo mô hình cải cách chính trị Liên Xô, mà họ coi là chủ nghĩa xét lại hiện đại, hay gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON), tổ chức thương mại quốc tế chính của các quốc gia Mác Lênin phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế của Liên Xô. Hiện tại, chính phủ Triều Tiên không công nhận sự liên quan giữa Chủ thể và các tư tưởng của Stalin, dù thỉnh thoảng cũng có để cập đến về sự xuất sắc chính trị được cho là của ông ta.

Dù ảnh hưởng của Mao Trạch Đông không được chính thức thừa nhận ở Triều Tiên, các nhà tư tưởng của Đảng Lao động Triều Tiên và những tác giả các bài phát biểu đã bắt đầu công khai sử dụng các tư tưởng của Mao, như ý tưởng tự cải tạo, trong thập niên 1950 và 1960. Các lý thuyết của Mao về nghệ thuật cũng bắt đầu gây ảnh hưởng tới âm nhạc Triều Tiên trong thời gian này. Những phát triển này xảy ra như một kết quả của sự ảnh hưởng từ sự chiếm đóng của Quân đội Trung Quốc trong năm năm sau cuộc Chiến tranh Triều Tiên, cũng như trong thời kỳ chia rẽ Trung-Xô khi Kim Nhật Thành ủng hộ Mao chống lại tiến trình phi Stalin hoá ở Liên Xô. Kim Nhật Thành đã từng đi học trung học tại Mãn Châu, ông rành tiếng Trung Quốc, và từng là một du kích quân thuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc từ khoảng năm 1931-1941. Chế độ Kim Nhật Thành thời hậu chiến cũng đã ganh đua cùng cuộc Đại Nhảy Vọt của Mao, lý thuyết Mass line (qunzhong luxian) của ông, và truyền thống du kích. Tuy nhiên, Juche không chính thức là một sự chia sẻ niềm tin của Mao vào nông dân hơn so với tầng lớp công nhân và người dân thường tại các thành phố.

Sau khi Mao chết, các chính sách chủ nghĩa xã hội tự cấp tự túc dựa trên nông dân của Mao bị loại bỏ ở Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình đưa ra chương trình Bốn hiện đại hoá năm 1978 và mở cửa cải cách kinh tế cho Trung quốc du nhập vào các yếu tố của kinh tế thị trường. Lý thuyết Đặng Tiểu Bình được chính thức áp dụng trong thập niên 1980. Dù quan hệ Bắc Kinh-Bình Nhưỡng khá thân thiết trong giai đoạn này, chế độ Triều Tiên đã lưỡng lự trong việc chấp nhận chính sách mở cửa và mô hình hiện đại hoá kinh tế của Trung Quốc, vì giới lãnh đạo nước này sợ những cải cách như vậy sẽ làm tổn hại tới tư tưởng Chủ thể và dẫn tới sự bất ổn chính trị và các sự kiện tương tự như Những cuộc phản kháng trên Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 (Lee, p. 1998, 199). Sau sự suy tàn và sụp đổ của Liên bang Xô viết cùng Khối Đông Âu trong giai đoạn 1989 và 1991, cùng với sự mất đi nguồn viện trợ kinh tế, Triều Tiên bắt đầu thực hiện học tập mô hình Trung Quốc một cách thận trọng, có lựa chọn và mang tính thực nghiệm.

Luật Liên doanh năm 1984 là một trong những nỗ lực đầu tiên của Triều Tiên học theo Đặng trong những nỗ lực nhằm thu hút nguồn vốn nước ngoài vào trong học thuyết định hướng kế hoạch hoá của Chủ thể. Tiếp sau hành động này là việc thành lập Đặc khu kinh tế Thâm Quyến. Triều Tiên đã thiết lập Khu Kinh tế Đặc biệt kiểu tư bản đầu tiên của mình năm 1991, Đặc khu kinh tế Rajin-Sonbong. Hiến pháp Chủ thể năm 1998 cũng được viết với các điều khoản bảo vệ quyền sở hữu cá nhân và các doanh nghiệp liên doanh với các nước tư bản, tạo điều kiện cho sự thành lập Viện nghiên cứu Chủ nghĩa Tư bản tại Bình Nhưỡng năm 2000, và cho phép cải cách giá và tiền lương ngày 1 tháng 7 năm 2002. Lý thuyết Đặng Tiểu Bình chấp nhận sự thị trường hoá nền kinh tế Trung Quốc như là "Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc" hay một nền "Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa," và tư tưởng Chủ thể của Triều Tiên đã hợp lý hoá những cải cách đó dưới ý tưởng "chủ nghĩa xã hội theo kiểu của chúng ta."

Về vai trò nhà nước-quốc gia trong Chủ thể, theo Kim Nhật Thành "Về các Vấn đề của Giai đoạn Chuyển tiếp từ Chủ nghĩa Tư bản sang Chủ nghĩa xã hội và Chuyên chính Vô sản" (1967) và "Về việc Bảo tồn Bản sắc Chủ thể và Bản sắc Quốc gia của Cách mạng và Xây dựng" (1997) của Kim Chính Nhật, mục tiêu của cách mạng và xây dựng theo Chủ thể là việc thiết lập chủ nghĩa xã hộichủ nghĩa cộng sản bên trong biên giới nhà nước CHDCND Triều Tiên. Trái ngược với các dự báo cổ điển của Chủ nghĩa Mác, Chủ thể cũng cho rằng người Triều Tiên là một cộng đồng quốc gia dựa trên dân tộc, rằng nhà nước-quốc gia Triều Tiên sẽ tồn tại mãi mãi, và rằng người Triều Tiên sẽ luôn sống tại Triều Tiên và nói tiếng Triều Tiên.

Dù có tính chất chủ nghĩa quốc gia của Chủ thể, các nhà tư tưởng Triều Tiên đã cho rằng các quốc gia khác có thể và cần phải học ở Juche để áp dụng các nguyên tắc của nó vào điều kiện của nước mình. Chính phủ Triều Tiên chấp nhận rằng Juche giải quyết các vấn đề từng được xem xét trong Chủ nghĩa Mác cổ điển và những phát triển sau đó thành Chủ nghĩa Mác Lênin, nhưng hiện đã tách khỏi và thậm chí từ bỏ một số khía cạnh của các học thuyết chính trị đó. Quan điểm chính thức như được đề cập trong bài nói "Triết học Chủ thể Là một Triết học Cách mạng Nguyên thuỷ" (1996) rằng Chủ thể là một tư tưởng hoàn toàn mới do Kim Nhật Thành tạo ra, và Kim không hề phụ thuộc vào chủ nghĩa Mác cổ điển. Vì thế, Hiến pháp CHDCND Triều Tiên không đề cập đến Chủ nghĩa Mác Lênin, mà đưa vào toàn bộ phần mở đầu bằng các phát biểu về Kim Nhật Thành.

Tuy ủng hộ rằng Chủ thể được sáng tạo với các đặc điểm quốc gia riêng biệt của Triều Tiên, trái ngược với việc tuân thủ các giả thuyết của chủ nghĩa Mác cổ điển về chủ nghĩa xã hội thế giới (ví dụ, giai cấp lao động thế giới không có quốc gia và giai cấp lao động thế giới liên hiệp lại), chính phủ CHDCND Triều Tiên thực tế có một số đề cập tới các cá nhân theo chủ nghĩa quốc tế Karl MarxFrederick Engels, người tiếp nối họ Vladimir Lenin, và Joseph Stalin như những lãnh tụ đáng chú ý của phong trào chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ mười chín và hai mươi trước sự xuất hiện của Chủ thể năm 1955. Trái lại, chủ nghĩa Mao hiếm khi được đề cập, và tư tưởng cải cách kinh tế của Đặng Tiều Bình nói chung bị cấm đoán toàn bộ. Ngoài ra, các tác phẩm chủ nghĩa Mác cổ điển nói chung bị hạn chế với các đọc giả bình thường ở Triều Tiên.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tư tưởng Chủ thể http://arts.monash.edu.au/korean/ksaa/conference/3... http://www.adherents.com/largecom/Juche.html http://bbs.keyhole.com/ubb/ubbthreads.php?ubb=show... http://www.korea-dpr.com/users/jisge http://www.koreascope.com/gnuboard/bbs/board.php?b... http://www.parapundit.com/archives/001464.html http://www2.law.columbia.edu/course_00S_L9436_001/... http://www.kcna.co.jp/item/1997/9708/news8/25.htm#... http://www.kcna.co.jp/item/2007/200701/news01/02.h... http://www1.korea-np.co.jp/pk/062nd_issue/98092410...